công chúa chiến quốc

Thế gả công chúa lấy bối cảnh sau khi nhà Chu chiến thắng nhà Tề, Trấn quốc vì muốn lấy lòng Đại Chu mà dâng Lâm Xuyên công chúa để cầu thân. Công chúa nghe đồn Hoàng đế Đại Chu Vũ Văn Ung là quái vật nên từ chối không muốn gả, ông ngoại thương cháu tính kế tráo [Tập 9] CÔNG CHÚA HẠT CÁT. Bộ phim CÔNG CHÚA HẠT CÁT thuộc thể loại phim Tình Cảm của Thái Lan. Tập 9 của bộ phim (CÔNG CHÚA HẠT CÁT) hiện hữu dàn diễn viên Thái Lan xuất sắc nhất. THE SAND PRINCESS 2019.. [Xem thêm] Phimzhay Thuyết minh và vietsub bộ phim (cong chua hat cat), lồng Trạng Quỳnh - Tập 24: Trạng chết Chúa cũng băng hà; Trạng Quỳnh - Tập 23: Cây cải tiến Chúa; Trạng Quỳnh - Tập 22: Văn võ tranh hùng; Trạng Quỳnh - Tập 21: Tráo thư; Trạng Quỳnh - Tập 20: Đơn trình bò chết; Trạng Quỳnh - Tập 19: Người bạn đồng hành Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. Thời đại Chiến Quốc Chữ Hán 戰國時代/战国时代; bính âm Zhànguó Shídài kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. Thời Chiến Quốc, là một giai đoạn mà các lãnh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Quá trình này đã bắt đầu ở thời Xuân Thu, và tới thế kỷ 3 TCN, bảy nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo. Bảy nước lớn thời Chiến Quốc 戰國七雄/战国七雄 Chiến Quốc thất hùng, gồm có Tề 齊, Sở 楚, Yên 燕, Hàn 韓, Triệu 趙, Nguỵ 魏 và Tần 秦. Một dấu hiệu khác của sự tăng cường quyền lực là sự thay đổi danh hiệu trước kia các lãnh chúa vẫn xếp mình vào bậc công 公 hay hầu 侯, chư hầu của vua nhà Chu; nhưng trong giai đoạn này họ đã lần lượt tự xưng vương 王, có nghĩa là họ ngang hàng với vua nhà Chu. Giai đoạn Chiến Quốc là giai đoạn phát triển của đồ sắt thay thế đồ đồng trở thành vật liệu chính được sử dụng trong chiến tranh tại Trung Quốc. Các vùng như Thục Tứ Xuyên ngày nay và Việt Chiết Giang ngày nay cũng đã bị sáp nhập vào vùng ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc trong thời gian này. Những bức tường do những quốc gia xây dựng nên để ngăn chặn các bộ lạc du mục phía bắc và ngăn chặn lẫn nhau là tiền thân của Vạn lý trường thành sau này. Các triết thuyết khác nhau đã được phát triển trong giai đoạn Bách gia chư tử, gồm Khổng giáo được phát triển chi tiết bởi Mạnh Tử, Đạo giáo được phát triển thêm bởi Trang Tử, Pháp gia do Hàn Phi Tử lập ra và Mặc học được Mặc Tử sáng lập. Thương mại cũng trở nên quan trọng, và một số nhà buôn đã có quyền lực to lớn trong chính trị. Những chiến thuật quân sự cũng thay đổi. Không giống như giai đoạn Xuân Thu, đa số các quân đội thời Chiến Quốc gồm bộ binh và kỵ binh và việc sử dụng xe ngựa chiến đấu đã dần bị quên lãng. Sự kiện Chiến Quốc[edit] Chiến Quốc thất hung[edit] Chiến Quốc Thất Hùng 戰國七雄 để chỉ bảy cường quốc, đã được hình thành từ sự suy yếu của nhà Chu, trong suốt giai đoạn Chiến Quốc của lịch sử Trung Quốc. Tên bảy nước được liệt kê theo thứ tự chữ cái Hàn 韓 Ngụy 魏 Sở 楚 Tần 秦 Tề 齊 Triệu 趙 Yên 燕 Kết thúc giai đoạn Chiến Quốc, chiến thắng đã thuộc về nước Tần do Tần Thủy Hoàng trị vì. Chính ông đã lập nên đế chế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tên gọi China mà phương Tây dùng để gọi Trung Quốc có lẽ xuất phát từ phiên âm chữ Tần Qin. Phân chia nước Tấn[edit] Ở giai đoạn Xuân Thu, nước Tấn 晉 là nước mạnh nhất trong số các chư hầu với thời gian làm bá chủ lâu hơn cả. Tuy nhiên, gần cuối thời Xuân Thu, quyền lực của vị vua cai trị tại đó đã giảm sút, nước Tấn dần rơi vào sự kiểm soát của sáu dòng họ lớn lục khanh - 六卿. Tới đầu thời Chiến Quốc, sau nhiều cuộc chiến tranh giành quyền lực, có bốn dòng họ còn sót lại là họ Trí 智, họ Nguỵ 魏, họ Triệu 趙, và họ Hàn 韓, trong đó họ Trí có thế lực mạnh nhất. Trí Bá Trí Dao 智瑶 liên minh với họ Nguỵ và họ Hàn để đánh Triệu Tương Tử Triệu Vô Tuất. Tuy nhiên, vì tính kiêu ngạo của Trí Dao nên họ Triệu đã bí mật thông đồng với họ Ngụy và họ Hàn lật ngược tình thế, tiêu diệt họ Trí. Năm 403 TCN, ba họ lớn nước Tấn, với sự đồng ý của vua Chu, chia nước Tấn thành ba nước 三家分晉 Hàn, Triệu, và Ngụy. Ba người đứng đầu ba họ được phong tước Hầu 侯, và bởi vì cả ba đều thuộc nước Tấn cũ, nên họ cũng được gọi là Tam Tấn 三晉. Nước Tấn tiếp tục tồn tại với một vùng đất nhỏ cho tới tận năm 376 TCN khi một lần nữa, phần còn lại đó lại bị Tam Tấn chia nhau. Xung đột giữa Tấn, Tề và Tần[edit] Năm 371 TCN, Ngụy Vũ Hầu chết mà chưa có người kế vị, khiến nước Ngụy rơi vào nội chiến tranh giành quyền lực. Sau ba năm nội chiến, nước Triệu và Hàn, lợi dụng cơ hội tấn công Ngụy. Khi sắp chiếm được nước Ngụy, các lãnh đạo nước Triệu và nước Hàn lại bất hoà với nhau về cách thức xử lý nước Ngụy và quân đội cả hai nước đã bí mật rút lui. Nhờ thế, Ngụy Huệ Vương lúc ấy vẫn đang là tước Hầu có thể lên ngôi làm vua nước Ngụy. Năm 354 TCN, Ngụy Huệ Vương phát động một cuộc tấn công quy mô lớn vào nước Triệu, một số nhà sử học cho rằng để trả thù việc họ đã tàn phá nước Ngụy trước đó. Tới năm 353 TCN, Triệu thua nhiều trận lớn và một trong những thành phố lớn của họ - Hàm Đan 邯鄲, thành phố sau này trở thành kinh đô nước Triệu – bị bao vây. Vì thế, nước Tề lân cận quyết định giúp đỡ nước Triệu. Chiến thuật mà Tề sử dụng là do Tôn Tẫn 孫臏, người lúc ấy là quân sư trong quân đội nước Tề, đề ra. Tề tấn công vào nước Ngụy khi quân đội Ngụy đang bao vây Triệu, buộc Ngụy phải rút lui. Chiến thuật này đã thành công; quân Ngụy vội vàng rút về, và gặp quân Tề ở Quế Lăng 桂陵 nơi Ngụy đã bị đánh bại một trận mang ý nghĩa quyết định. Từ sự kiện này xuất hiện câu nói "Vây Ngụy cứu Triệu" 圍魏救趙. Năm 341 TCN, Ngụy tấn công Hàn, và Tề lại can thiệp một lần nữa. Hai vị tướng ở trận Quế Lăng lần trước lại gặp nhau, và nhờ chiến thuật khôn khéo của Tôn Tẫn, Ngụy lại bị thất bại to lớn một lần nữa tại trận Mã Lăng 馬陵. Trong trận này, Bàng Quyên, chủ tướng quân Ngụy tử trận. Tình thế của nước Ngụy càng nguy ngập hơn nữa khi Tần lợi dụng cơ hội Ngụy thua liên tục trước Tề để tấn công Ngụy năm 340 TCN theo mưu đồ của nhà cải cách nước Tần là Thương Ưởng 商鞅. Ngụy bị đánh bại và buộc phải nhượng một phần lớn đất đai để đổi lấy hoà bình. Việc này khiến kinh đô An Ấp 安邑 của Ngụy rơi vào tình thế nguy hiểm, vì thế Ngụy phải rời đô sang Đại Lương 大梁sau này đổi thành Biện Lương 汴梁. Vì vậy, từ đó trở đi nước Ngụy còn được gọi là Lương. Sau những sự kiện này, nước Ngụy trở nên suy yếu và nước Tề cùng nước Tần trở thành hai nước thống trị ở giai đoạn này. Cải cách Thương Ưởng ở Tần[edit] Tần sở dĩ mau mạnh một phần là nhờ địa thế ở lánh về phía Tây, ít bị các nước láng giềng ở phía đông dòm ngó, được tự do phát triển, lại có cửa Hàm Cốc rất hiểm trở, "một người giữ cửa đó thì cự được vạn người", nên Tần có thể qua cửa đó để tấn công các nước phía đông, chứ các nước này không dám mạo hiểm qua cửa đó để tấn công Tần. Khoảng năm 359 TCN, Thương Ưởng 商鞅, một vị quan nước Tần, bắt đầu đưa ra nhiều cải cách biến Tần từ một nước lạc hậu trở thành nước có vị thể vượt hẳn sáu nước kia. Nói chung, nó thường được coi là điểm quyết định để nước Tần bắt đầu trở thành nước mạnh nhất thời Chiến Quốc. [[Tập tin đồ Trung Quốc thời chiến quốc khoảng năm 350 TCN]] Từ 356 đến 348 TrCN, Tần lập 41 huyện trên khắp cõi. Thương Ưởng làm tướng quốc Tần, khuyên vua Tần đánh những đòn rất mạnh vào giai cấp quý tộc, tước dần quyền của họ; tạo ra một giai cấp quý tộc mới gồm những quân nhân có tài; hễ chém được nhiều đầu giặc thì được chức cao. Ông lại lập chính sách khẩn hoang, cho dân chúng làm chủ những đất họ khai phá được, do đó có thêm bọn phú nông xuất hiện, bọn này với bọn phú thương sẽ tranh quyền với bọn quý tộc cũ. Ông còn bãi bỏ tục quý tộc không bị hình phạt như thứ dân, mọi người đều bình đẳng về pháp luật mà pháp luật được công bố cho toàn dân được biết. Từ thời Xuân Thu đã có vài nước công bố "hình thư", nghĩa là khắc hình luật trên các đỉnh đặt ở triều đình hoặc trên những bảng gỗ treo ở kinh đô, như vậy để bỏ cái lệ hễ bọn quý tộc bị tội thì triều đình xử kín theo lệ riêng của họ với nhau, còn dân chúng bị tội thì bị xử theo hình pháp một cách nghiêm khắc hơn. Hình thư dần dần được các nước khác theo, nhưng luật pháp không nước nào khốc liệt như ở Tần. Dân không được lang thang đi đâu tuỳ ý. Người nào cũng phải có một cái thẻ như chứng minh nhân dân ngày nay họ gọi là "bằng cứ", muốn vào quán trọ nào phải trình thẻ, chủ quán không dám chứa những người không mang thẻ. Bọn du thủ du thực bị bắt thì làm nô lệ hết. Các thư, kinh bị đốt hết. Làng xóm tổ chức lại hết. Cứ năm hay mười nhà họp thành một liên gia có bổn phận phải phòng kẻ gian, tố cáo kẻ có tội, nếu không thì chịu trách nhiệm chung. Mặc Tử một thế kỷ trước đó cũng đã có ý đó nhưng chính sách của Thương Ưởng triệt để hơn làm thay đổi cả tổ chức hương thôn, chia lại đất đai canh tác, phá bỏ hàng rào cũ, do đó mà thay đổi hẳn lối sống, phong tục, có thể gọi là một cuộc cách mạng. Các luật thưởng phạt quân nhân rất nghiêm, thứ dân có chiến công thì được chức tước, quý tộc mà không có chiến công thì bị giáng xuống thành thứ dân. Tất cả cải cách đều nhằm mục đích duy nhất là sản xuất lúa cho nhiều để nuôi binh, là luyện binh cho mạnh để xâm chiếm nước khác. Khi Tần Hiếu công chết 338 TCN, quý tộc trả thù và Thương Ưởng bị phanh thây. Nhưng non một thế kỷ sau, vua Tần tên Doanh Chính tức Tần Thủy Hoàng áp dụng lại chính sách đó mà làm cho Tần mạnh nhất trong số thất hùng. Chấm dứt thời đại nhà Chu[edit] Năm 334 TCN, vua nước Nguỵ và Tề đồng ý công nhận lẫn nhau về tước vương 王, chính thức hoá sự độc lập của các nước chư hầu và gạt bỏ vị thế của vua nhà Chu từ đầu thời Đông Chu. Vua nước Nguỵ và Vua nước Tề tiến lên ngang hàng với Vua nhà Chu, đã liên tục kế vị từ thời Xuân Thu. Từ đó về sau, tất cả các nước cuối cùng đều tự phong vương, đánh dấu sự khởi đầu cho sự kết thúc của nhà 325 TCN, vua nước Tần tự phong 323 TCN, vua nước Hàn và Yên tự xưng 318 TCN, vua nước Tống xưng 299 TCN, vua nước Triệu xưng Vương. Từ khi sinh ra hắn chỉ có bệnh tật và bóng đêm vô tận bầu bạn. Ddến khi hắn tròn 5 tuổi đã gawpj một kẻ xưng là hề hy mệnh cổ quái trong giấc mộng của mình. Và kẻ đó đã làm bạn với hăn suốt mười năm trong giấc mộng, từng bước thay đổi vận mệnh vươn tới mộng tưởng kẻ làm ngày đó, Vương Trọng đang đứng trước cánh cổng Thiên Kinh học viện, chuẩn bị đưa cuộc đời của chính mình sang một trang thời đại anh hùng nhiều như mây, nhân loại luôn hy vọng nắm lại quyền làm chủ địa cầu, tiến quân lên vĩ độ cao!Quan trọng là…. Huynh trưởng Vương, sinh viên năm hai khoa xử lý nước thải, nghiên cứu cách sử dụng bàn xoay Hy Mệnh như thế nào, để đẩy nổi cả thể giới, các sư muội chú ý, huynh trưởng đến rồi! Chân dung Trưởng công chúa nước Tào Chu Phật Nữ thời nhà Minh. Ảnh Wikipedia Trong rất nhiều ghi chép của các thư tịch cổ đại, chúng ta đều có thể thấy từ "công chúa" công chủ là dùng để chỉ con gái của hoàng đế, tuy nhiên danh từ "công chúa" này có nguồn gốc thế nào? Theo "Xuân thu Công Dương truyện" ghi chép "Thiên tử gả con gái cho chư hầu, ắt sẽ để người cùng họ của chư hầu làm chủ". Chủ chính là có ý chỉ "chủ hôn". Thì ra vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, chư hầu của các nước chư hầu gọi là "Công". Khi thiên tử nhà Chu gả con gái cho chư hầu thì thiên tử không làm chủ hôn, mà trao mệnh cho chư hầu cùng họ làm trưởng bối để chủ trì hôn sự. Vì vậy, cũng gọi có gái của thiên tử là "công chủ", và có âm đọc khác là "công chúa". Thế nên danh xưng công chúa có nguồn gốc sớm nhất là thời Xuân Thu Chiến Quốc, nhưng nó lại không phải chỉ nàng "công chúa" hay danh xưng nàng "công chúa", mà chỉ có nghĩa là "Vị vương công trong họ của vua làm chủ hôn cho con hôn lễ của gái vua" mà thôi. Sau này, danh xưng "công chúa" này được triều Hán sử dụng để gọi "con gái" của hoàng đế, sau mở rộng ra cả chị em gái của hoàng đế. Các triều đại khác đều dùng theo nhà Hán cho đến triều Thanh. Theo chế độ nhà Hán, con gái của hoàng đế gọi là công chúa, chị, em gái của hoàng đế gọi là Trưởng công chúa, cô của hoàng đế gọi là Đại trưởng công chúa. Danh xưng công chúa thêm chữ "trưởng", "đại trưởng" đều có ý nghĩa tôn kính. Thời Đông Hán, con gái của hoàng đế đều được phong làm "huyện công chúa", tức trước danh xưng "công chúa" là tên huyện. Đến thời triều Tấn, con gái của hoàng đế đều được phong làm quận công chúa, tức là trước danh xưng "công chúa" là tên của quận. Đến triều nhà Đường, danh xưng "công chúa" vẫn như cũ, nhưng có quy định về phẩm cấp đại trưởng công chúa, trưởng công chúa, công chúa đều được hưởng đãi ngộ chính nhất phẩm. Thời triều Thanh, Thái Tông Hoàng Thái Cực kế thừa chế độ nhà Minh vào năm Sùng Đức thứ nhất, con gái của hoàng đế xưng là "công chúa". Công chúa cũng có phân đẳng cấp công chúa do hoàng hậu sinh thì được phong làm "Cố luân công chúa", được hưởng đãi ngộ tương đồng với thân vương; công chúa là con nuôi của hoàng hậu hoặc do hoàng phi sinh thì được phong làm "Hòa thạc công chúa", được hưởng đãi ngộ tương đồng với quận vương. Đến triều nhà Đường, danh xưng "công chúa" vẫn như cũ, nhưng có quy định về phẩm cấp. Ảnh Miền công cộng Những công chúa nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc 1. Công chúa Thái Bình Công chúa Thái Bình là con gái của nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc - Võ Tắc Thiên, được Võ Tắc Thiên rất sủng ái. Tuy tên gọi là Công chúa Thái Bình nhưng cuộc đời cô lại không có mối quan hệ với hai chữ 'thái bình'. Cuộc đời Công chúa Thái Bình rất truyền kỳ, và rất giống với mẹ cô - Võ Tắc Thiên, đều say mê quyền và lợi, tham vọng rất lớn. Cô là người có quyền lực lớn nhất và tiếp cận gần với ngôi vị hoàng đế nhất trong các công chúa triều Đường. Cô tranh đoạt quyền thống trị với người cháu là hoàng tử Lý Long Cơ, nhưng cuối cùng bị thất bại và bị ban cho cái chết. 2. Công chúa Lỗ Nguyên Công chúa Lỗ Nguyên là con gái độc nhất của Lưu Bang và Lã Trĩ, là công chúa đầu tiên của triều Hán, cũng là công chúa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Những sự tích của cô không nhiều, sử sách cũng ít ghi chép, nhưng cuộc đời cô cũng rất truyền kỳ cha là hoàng đế khai quốc nhà Hán, mẹ là Lã Hậu độc chiếm đại quyền, em trai là hoàng đế thứ 2 triều Hán, con gái là quốc mẫu. 3. Công chúa Bình Dương triều Đường Trong lịch sử có hai công chúa Bình Dương, ở đây là nói về công chúa Bình Dương, con gái của Lý Uyên. Cô là thống soái quân sự duy nhất trong những công chúa trong lịch sử, đã lập được nhiều chiến công hiển hách cho phụ thân Lý Uyên, là công chúa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc thống soái thiên binh vạn mã, gây dựng đế nghiệp cho phụ thân. Tài năng, kiến thức và can đảm của nàng không kém những người anh và người em của nàng. Quan ải nổi tiếng ở Vạn Lý Trường Thành - Nương Tử Quan nổi tiếng là do nàng thống lĩnh Nương tử quân trấn thủ ở đó. Sau khi nàng chết, tang lễ được cử hành với quy chế cực cao, an táng theo quân lễ. Công chúa Bình Dương cũng là công chúa đầu tiên của triều Đường có thụy hiệu. 4. Công chúa Văn Thành Công chúa Văn Thành cũng là một công chúa đời Đường, cô là công chúa đầu tiên gả chồng xa cho vua Thổ Phồn, tác thành mối quan hệ hữu hảo giữa triều Đường và Thổ Phồn. Đương thời, thế lực Thổ Phồn rất mạnh, để tránh chiến tranh loạn lạc, triều Đường đã lựa chọn gả công chúa kết thân. Công chúa Văn Thành thông hiểu kinh sách, thấu tình đạt lý, am hiểu lễ nghi, hiền thục đa tài, được vua Thổ Phồn ái mộ. Vua Thổ Phồn Tùng Tán Can Bố Songtsen Gampo đã xây dựng cung Bố Đạt La Potala cho công chúa Văn Thành, tổng cộng có 1000 gian cung thất, hoàng tráng mỹ lệ. Cuộc hôn nhân của công chúa Văn Thành vô cùng tốt đẹp, khiến hai nước tăng cường giao lưu, sứ thần và thương nhân tấp nập qua lại lẫn nhau. Từ đó, hai nước yên vui, chung hưởng thái bình 200 năm. Tượng Văn Thành công chúa. Ảnh Wikipedia 5. Công chúa An Lạc Công chúa An Lạc là mỹ nữ đệ nhất triều Đường, là con gái của Đường Trung Tông Lý Hiển. Có lẽ có đặc tính chung của phụ nữ thời kỳ đầu nhà Đường, công chúa An Lạc cũng có dục vọng chính trị rất mạnh mẽ. Trong thời gian Trung Tông tại vị, cô đã can dự triều chính, buôn bán quan tước. Rất nhiều chức quan bên dưới tể tướng đều do cô bán. Cô còn muốn Lý Hiển lập mình là Hoàng Thái Nữ, sau này sẽ là nữ hoàng thứ 2 kế vị ngôi hoàng đế. Lý Hiển tuy không đồng ý nhưng vẫn rất sủng ái công chúa An Lạc. Nhưng Đường Trung Tông có nằm mơ cũng không nghĩ rằng cuối cùng ông đã phải đầu độc chết cô con gái ruột của mình. Công chúa An Lạc tâm địa độc ác, thủ đoạn tàn bạo, sống cực kỳ xa xỉ, và nổi tiếng làm loạn. Cuối cùng cô đã bị giết trong chính biến, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi của một công chúa xinh đẹp nhưng lại ham quyền lực và tiền bạc. Hoàng Mai Theo Secretchina, KKnews

công chúa chiến quốc