cù lao chín chữ ghi lòng con ơi

CÙ LAO CHÍN CHỮ GHI LÒNG CON ƠI . Bạn nào giúp mình với mình đang cần gấp lắm !!! NÚI CAO BIỂN RỘNG MÊNH MÔNG. Theo dõi Vi phạm Trả lời (1) Công cha nghĩa mẹ được nói đến nhiều trong ca dao. Bài ca dao "Công cha như núi Thái Sơn" hầu như em bé nào cũng đã "uống" qua lời Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Đây là lời của một người mẹ ru đứa con bé bỏng của mình ngủ ngon, vừa nhắc nhở công ơn trời biển của bố mẹ đối với con và bổn phận của con phải sống như trái tim con mách bảo. Lời ru ngọt ngào bao Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Nhấn mạnh về sự hi sinh, che chở của cha mẹ với con cái; Hình ảnh cù lao chính chữ/chín chữ cù lao: ẩn dụ về công đức sinh thành của cha mẹ nuôi con vất vả; Ghi lòng con ơi!: nhắc nhở con cái không quên cha mẹ. 3.2. Bài ca dao số 2: Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. Người xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh sống vùng kênh rạch sông nước , cứ từ nơi này qua nơi kia phải đi bằng ghe xuồng , nhứt là bơi xuồng qua mấy cái Cù Lao nho nhỏ nổi lên giữa sông , thí dụ như Cù Lao Ông Chưởng nổi tiếng trong các bài ca dao bài vè “Bao phen quạ nói với diều Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”. Hay “Công cha như núi ngất trời. Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông. Cù Lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Nói vậy chớ chữ Cù Lao nói về các hòn đảo nhỏ trên sông và chữ Cù Lao nói về công ân sanh thành của cha mẹ có liên quan gì nhau chăng? Cù lao Chàm là một điểm đến du lịch nổi tiếng ở Đà Nẵng Tôi xin được phân tách, hai chữ Cù Lao này đều ghi chữ Hán khác nhau hoàn toàn Thứ nhứt Cù Lao nghĩa trong “công ơn cha mẹ” tiếng Hán ghi là 苦勞, chánh xác phiên âm Hán Việt được ghi là “Khổ Lao” thay vì là Cù Lao như các bài ca dao trên. Khổ là Khổ cực , Lao tức Lao tâm tổn trí. Thứ hai chữ Cù Lao để nói về “đảo trên sông” được ghi là 劬勞, tiếng Hán Việt là “Cù Lao”. Hai chữ này ghép lại hoàn toàn vô nghĩa trong tiếng Hán. Đó chỉ là hình thức mượn chữ Hán để chỉ đọc lại tiếng “hòn đảo” từ tiếng gốc Mã Lai gọi là “pulau”, Các bạn sẽ thấy lạ là tại sao ở Nam kỳ lại có âm Mã Lai. Gốc Mã Lai chánh là gốc người nước Phù Nam cổ trên cùng đất này từ thế kỷ thứ 4 sau bị Chân Lạp thâu tóm thành Thuỷ Chân Lạp và sau này sát nhập với đất của các Chúa Nguyễn qua cuộc lương duyên với công nữ Ngọc Vạn. Trong câu “Bắc thang lên hỏi ông Trời” Thang = Tangga Mã Lai, và Trời cũng là tiếng Mã Lai cũng còn dùng hiện nay. “Thang” trong tiếng Việt bắt nguồn từ “Tangga” của tiếng Mã Lai Sau này khi người Việt và người Minh Hương tới đất Nam Kỳ, họ chỉ sử dụng tiếng Hán là chủ yếu nên đã Hán hóa một số từ ngữ bản địa thành ngôn của mình cho dễ đọc và ghi chép lại – trong đó có chữ Pulao của người Mã là Đảo. Phiên âm Hán Việt là 劬勞 cù lao vì vùng đất này là của Chân Lạp trước khi họ đến nên chắc là người Chân Lạp ko dùng Hán tự rồi. Việt Nam ta cũng có nhiều Pu Lao …như Cù lao Chàm, Cù lao Giêng, Cù lao Phố, Cù lao Rồng Dĩ nhiên là hai tiếng “cù lao” trên đây chẳng có liên quan gì đến hai tiếng cù lao dùng để nói về công lao cha mẹ. Một đằng là từ gốc Mã Lai còn một đằng lại là từ gốc Hán. “Cù lao” – Một đằng là từ gốc Mã Lai còn một đằng lại là từ gốc Hán Khi nói về “Công ân cha mẹ” chính xác phiên âm ra là chữ “Khổ Lao” hay “Cù Lao” phát âm từ tiếng Hán gần như nhau nên họ phát âm y xì. Rồi khi chữ Quốc Ngữ la tinh ra đời họ đọc phát âm sao thì ghi ta y chang vậy nên mới co các câu ca dao nói về âm dưỡng dục của cha mẹ bằng hai chữ “Cù Lao”. “Thương thay chín chữ cù lao Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình”. “Chín chữ cù lao” Cửu tự cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sinh dưỡng con cái. Chín chữ đó là Sinh 生 sinh đẻ. Cúc 鞠 nâng đỡ. Dục 育 dạy dỗ. Phủ 撫 vuốt ve. Xúc 蓄 cho bú sữa. Trưởng 長 nuôi cho khôn lớn. Cố 顧 trông nom. Phục 復 ôm ấp. Phúc 腹 bảo vệ. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi Nói tiếp chơi còn một thứ cù lao nữa mà có lẽ bạn chưa nghe nói đến. Thứ “cù lao” này thuộc về lãnh vực ẩm thực trong tiếng Việt của miền Nam, mà “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức Khai Trí, Sài Gòn, 1970 giảng là “Cái lẩu, đồ đựng thức ăn có nước, giữa có ống đựng than lửa”. Bị chánh giữa cái nồi có cục nhô lên như mấy cái “cù lao” giữa sông nên dân gian gọi là cái Cù Lao. Trước năm 1955, khi tác giả của những dòng này chưa ra Bắc thì ở trong Nam, người ta vẫn còn gọi cái lẩu là “cù lao”. Lẩu là đồ đựng thức ăn có nước, giữa có ống đựng than lửa Đến năm 1975, khi trở về thì đã nghe bàn dân thiên hạ gọi cù lao thành lẩu. Thêm cái ngộ nghĩnh lắm nè Do tầm nhìn xưa còn hạn chế, nên dân Việt mình hồi lúc chưa được nhìn ra bao la thế giới mà chỉ lòng vòng trên sông nước. Người Việt chưa biết rằng xa thẳm ngoài đại dương cũng có những “cù lao” nổi trên mặt nước, thì họ tự cho rằng các “các cục đất nhô giữa sông hồ” đều là Pulao Cù lao còn Đảo tức cục đất nhô lên giữa lòng đại dương biển cả. Chữ Pulao trong tiếng Mã Lai và Đảo/島 trong tiếng Hán đều chỉ những hòn đảo dầu cho trên sông hay trên biển – tiếng Anh đều gọi là “Island” hết thảy. Do bởi đất Nam Kỳ từng là vùng đất dung dưỡng nhiều sắc tộc khác nhau cung chung sống nên ngôn ngữ văn hoá tôn giáo cung phong phú lắm. SỬ NƯỚC NAM Nguồn Facebook Công cha nghĩa mẹ được nói đến nhiều trong ca dao. Bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn” hầu như em bé nào cũng đã “uống” qua lời ru ngọt ngào của mẹ, của bà ngay từ thuở còn nằm trong nôi. Còn có bài ca dao bốn câu sau đây hầu như ai cũng nhớ cũng thuộc “Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn, ở đây công cha lại được ví với “núi ngất trời", núi hùng vĩ, núi cao chót vót ,cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa mẹ”’ nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với nước ở ngoài biển Đông. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tạo nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa mẹ cha với tình yêu sâu nặng. Tiếng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lên nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghĩa mẹ Thấm thía và rung động biết bao “Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông” Hai câu cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào. Tiếng cảm thán “con ơi !” là lời nhắn nhủ ân tình về đạo làm con phải biết "ghi lòng” tạc dạ công cha nghĩa mẹ “Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Câu trên là một ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ như “Núi cao biển rộng mênh mông”. Câu cuối bài ca dao, nhà thơ dân gian sử dụng cụm từ Hán Việt “cù lao chín chữ” để nói lên công ơn to lớn của cha mẹ như sinh thành nuôi dưỡng, cho bú mớm nâng niu, chăm sóc dạy bảo… con cái lớn khôn nên người, trải qua nhiều bề vất vả, khó nhọc. Có cha mẹ mới có con cái. Cha lo làm ăn, vất vả khó nhọc để nuôi con. Từ bát cơm, tấm áo đến ngọn đèn, quyển sách của con là do “công cha” và “nghĩa mẹ”. Mẹ mang nặng đẻ đau, như tục ngữ đã ghi lại “Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ”. Con thơ lớn lên bằng dòng sữa tiếng ru, tiếng hát, bằng sự vỗ về, âu yếm chở che của mẹ hiền. Mẹ theo dõi, mẹ vui sướng từng ngày, từng ngày “Ba tháng con biết lẫy, bảy thảng con biết bò, chín tháng con lò dò biết đi”… Mẹ lo lắng, tóc mẹ bạc dần… khi con thơ ốm đau bệnh tật. Bát cháo, chén thuốc cho con chứa đựng biết bao tình thương của mẹ hiền. Và cái ngày con cắp sách đến trường vào học lớp Một, mẹ cha như trẻ lại, dào dạt sống trong niềm vui hạnh phúc và hi vọng. Đó là “cù lao chín chữ", đó là công ơn to lớn trời bể của mẹ cha, mà con cái phải biết “ghi lòng”. Có hiếu thảo thì con cái mới biết “ghi lòng” công cha nghĩa mẹ. Hai tiếng “con ơi " thật thấm thía, vần thơ như thấm sâu, lắng sâu vào tâm hồn ta. Cái hay của bài ca dao là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc nó dạy chúng ta bài học về lòng hiếu thảo của đạo làm con. Mục Lục [Ẩn] Chín chữ cù lao là gì? Ý nghĩa 9 chữ cù lao 1. Chữ Sinh 2. Chữ Cúc 3. Chữ Phủ 4. Chữ Súc 5. Chữ Trưởng 6. Chữ Dục 7. Chữ Cố 8. Chữ Phục 9. Chữ Phúc “Công cha mẹ sinh thành dưỡng dụcƠn đức này chín chữ cù lao”. “Chín chữ cù lao” là chín ân lớn thể hiện sự chăm sóc, hy sinh, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái. Chín chữ cũng là chín bài học của mỗi người mà ai cũng phải khắc ghi trong lòng thật sâu sắc. Với mong muốn giúp thế hệ trẻ vun bồi tâm hiếu hạnh, giúp cho những người con hiểu được công ơn cha mẹ, Thầy Thích Trúc Thái Minh đã giảng giải về “Chín chữ cù lao”. Vậy chín chữ cù lao là gì? Kính mời quý Phật tử cùng đón đọc bài viết dưới đây! Chín chữ cù lao là gì? “Cù lao” là nhọc nhằn, khó khổ. Chín chữ cù lao thể hiện sự gian lao, vất vả khi sinh con, nuôi con, dạy dỗ con của cha, của mẹ. Chín chữ cù lao đó là Sinh - Cúc - Phủ - Súc - Trưởng - Dục - Cố - Phục - Phúc. Thầy Thích Trúc Thái Minh giảng Pháp cho các bạn trẻ về chủ đề “Chín chữ cù lao” ảnh minh họa Ý nghĩa 9 chữ cù lao Chín chữ cù lao tuy đơn giản nhưng lại mang những hàm ý sâu sắc và cao đẹp. 1. Chữ Sinh “Sinh” nghĩa là cha mẹ đã sinh ra chúng ta, cho chúng ta mầm sống, hình hài. Chúng ta trong thai mẹ suốt 9 tháng làm mẹ vất vả ăn, ngủ không được, phải kiêng khem giữ gìn đủ thứ, thân thể nặng nề, xồ xề xấu xí. Đến ngày sinh, mẹ lại chịu đau đớn vô cùng; thậm chí đã có những người mẹ mất mạng sau khi sinh con ra. Có những người mẹ sức khỏe yếu quá nên quyết định hy sinh thân mạng để con mình được sinh ra. Cho nên, người ta gọi “cửa sinh là cửa tử” - người mẹ sinh con giống như đi vào cửa tử. Vậy nên, khi sinh được con thì cha mẹ quý con như vàng, như ngọc nên dù lỡ con sinh ra với hình hài có xấu xí, tật nguyền, cha mẹ cũng không vì điều gì mà bỏ rơi con. Tình thương của cha mẹ đối với con lớn lao như vậy nên chúng ta đừng làm điều gì buông lung để tổn hại đến thân thể mình khiến cho cha mẹ đau khổ. Mẹ luôn là người che chở, bảo bọc cho con ảnh minh họa 2. Chữ Cúc Nghĩa là cung cúc, nâng đỡ. Từ khi mới lọt lòng cho đến khi lớn khôn nên người, biết bao nhiêu lần chúng ta được cha mẹ tay truyền tay bế ẵm nâng niu trong tình yêu thương của cha mẹ. Đối với cha mẹ, chúng ta là giọt máu của cha mẹ, còn quý hơn cả vàng ngọc. Dẫu con thế nào thì tình yêu thương của cha mẹ không bao giờ thay đổi. Con là sự sống, là tất cả của cha mẹ; vì vậy, nếu có ai mang cả tấn vàng để đổi lấy con thì chắc chắn, cha mẹ cũng không đổi. Dù cha mẹ có phải ăn rau, ăn mắm thì cha mẹ cũng không bỏ rơi con. Chỉ cần mỗi ngày nhìn con cười, con nói, nhìn con lớn lên, trưởng thành thì đó chính là niềm hạnh phúc của cha mẹ. Thật đúng với câu “Có vàng, vàng chẳng hay phôCó con, con nói trầm trồ mẹ nghe” Con lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ ảnh minh họa 3. Chữ Phủ Nghĩa là che chở, vỗ về. Từ khi con còn bé, mỗi lần con đau ốm, cha mẹ vỗ về, ngày đêm túc trực, chăm sóc con từng li từng tí. Khi đêm đông, sợ con bị rét lạnh, cha mẹ ôm chặt con vào lòng, sưởi ấm cho con, ủ ấm lấy hơi của mình truyền sang cho con xua tan đi giá lạnh để con được yên giấc ngủ ngon. Mỗi khi con ốm, mẹ là người luôn bên cạnh, túc trực chăm sóc cho con ảnh minh họa 4. Chữ Súc Chữ “Súc” trong từ súc dưỡng, ăn uống nuôi nấng, bú mớm. Mỗi chúng ta đều từ trong thai mẹ mà lớn lên, nhờ ơn mẹ nuôi nấng nên chúng ta mới được khỏe mạnh nên người. Khi con còn trong thai, sợi dây rốn kết nối giữa con và mẹ, mang máu, dinh dưỡng từ mẹ để con phát triển khỏe mạnh. Khi con sinh ra đời, mẹ dù thế nào cũng đều vì con mà cố gắng ăn uống những gì tốt nhất, bổ nhất để có sữa cho con. Bởi mẹ hiểu rằng, sữa mẹ rất quan trọng đối với sự phát triển thể chất của con. Đó là một trong chín ân sâu mà mỗi người con cần khắc cốt ghi tâm, đem theo suốt cuộc đời. Mẹ ăn uống đầy đủ để con ở trong thai phát triển khỏe mạnh ảnh minh họa 5. Chữ Trưởng Sinh con ra đã khó khổ, để nuôi dạy con trưởng thành thì cha mẹ lam lũ, càng vất vả bội phần. Đó chính là ý nghĩa của chữ thứ năm, chữ “Trưởng”. Cha mẹ làm nghề công chức, công nhân, tiểu thương buôn bán hay bất kì nghề gì đi chăng nữa, cha mẹ cũng rất vất vả sớm hôm, chỉ mong sao con được ăn học đàng hoàng, được bằng bạn bằng bè không phải tủi thân. Trong cuộc sống, chúng ta nghe thấy không ít những câu chuyện về cha mẹ vì con mà dù khó, dù khổ cũng làm. Chúng ta hãy dành thời gian nghĩ đến cha mẹ, khi mình ngồi trên ghế nhà trường mát mẻ, nơi làm việc thanh nhàn thì cha mẹ ở nhà đầu tắt mặt tối, mồ hôi nhễ nhại vất vả. Cho nên mọi sự thành tựu của chúng ta đều nhờ công sức lớn lao của cha mẹ mà ra. Cha làm việc vất vả sớm hôm để con được ăn uống no đủ, học hành đàng hoàng ảnh minh họa 6. Chữ Dục Chữ “Dục” mang ý nghĩa dạy dỗ. Cha mẹ là người thầy đầu tiên trong đời của chúng ta. Cha mẹ dạy ta tập lẫy, tập bò, tập đi rồi tập nói. Từ kinh nghiệm sống của mình, cha mẹ dạy con cách ứng xử từ trong gia đình cho đến ngoài đời xã hội. Chính nhờ cha mẹ dạy dỗ mà chúng ta mới biết sống đạo đức, đạt được thành tựu trong cuộc đời này. Vì thế, có thể nói, cha mẹ chính là người thầy đầu tiên và cũng là thầy của chúng ta trong suốt cả cuộc đời. Nếu chúng ta khéo biết nhìn, biết học thì tấm gương của cha mẹ luôn là bài học quý báu cho chúng ta. Cha là người thầy đầu tiên dạy con biết đọc, biết nói, dẫn dắt con vào đời ảnh minh họa 7. Chữ Cố Chữ “Cố”, nghĩa là ngóng trông, nhìn về, hướng tới. Đối với cha mẹ thì các con là khúc ruột nên không lúc nào cha mẹ rời mắt khỏi các con, lúc nào cũng nghĩ đến và ngóng trông con. Con dù lớn khôn, trưởng thành nhưng đối với cha mẹ, con vẫn là đứa con bé bỏng ngày nào cha mẹ vẫn ẵm trên tay, là đứa trẻ còn non dại cần được yêu thương, che chở; vậy nên mới có câu “mẹ già trăm tuổi, vẫn thương con tám mươi”. 8. Chữ Phục “Phục” nghĩa là quấn quýt, không rời. Cha mẹ bao giờ cũng thế, không muốn rời con, lúc nào cũng muốn con quấn quýt bên mình. Vậy mà, chúng ta không hiểu được điều ấy, lớn lên rồi lại chỉ muốn rời khỏi vòng tay cha mẹ để được tự do, khám phá thế giới bên ngoài; mà quên rằng, nơi quê nhà, cha mẹ vẫn ngày ngày tựa cửa ngóng trông con về. Thiếu vắng con là thiếu vắng niềm vui, ngôi nhà trở nên vắng vẻ. Vậy nên, chúng ta hiểu lòng cha mẹ thì đừng làm cha mẹ buồn lòng. Dù bận đến đâu, chúng ta cũng nên sắp xếp về quây quần bên cha mẹ để cha mẹ được vui vẻ, được thấy niềm hạnh phúc gia đình đoàn tụ, sum vầy. Niềm hạnh phúc của mẹ là con ảnh minh họa 9. Chữ Phúc Chữ thứ chín cũng là chữ cuối cùng, đó là chữ “Phúc”. “Phúc” có nghĩa là che chở, bảo vệ. Quả thật, cha mẹ nào cũng đều có tâm che chở bảo vệ cho con bởi vì con là giọt máu của cha mẹ. Đối với con, cha mẹ luôn yêu thương con vô điều kiện, vô bờ bến, sẵn sàng bảo vệ cho con. Dù phải hy sinh thân mình vì con, cha mẹ cũng không hề tiếc, sẵn sàng chịu khổ, thiệt thòi về mình để con được bình an. Xem thêm Duyên nợ giữa cha mẹ và con cái Mẹ luôn là người che chở, bảo bọc cho con ảnh minh họa Hiểu về ý nghĩa “chín chữ cù lao”, chúng ta mới thấy ân đức sinh thành cha mẹ rất lớn mà không có ngôn từ nào kể hết được. Thế nhưng, chúng ta biết rằng mình không chỉ có cha mẹ hiện đời mà còn có cha mẹ trong các kiếp quá khứ. Bởi Đức Phật dạy rằng, tất cả chúng sinh đều từng là cha mẹ của chúng ta; tất cả chúng sinh đều từng là cha mẹ của Đức Phật. Thế nên, Đức Phật trong vô số kiếp quá khứ tinh tấn tu hành để cứu độ chúng sinh, báo đền ân đức cha mẹ. Cho nên, Đức Phật là bậc Đại Hiếu. Là người đệ tử Phật, chúng ta phải tu tâm hiếu đạo, đặt hiếu đạo lên hàng đầu. Chúng ta phải sống thật tốt, không làm khổ mình, không làm khổ người. Dù sống ở đâu, trong quốc độ, môi trường nào, chúng ta cũng cần tu thân, dưỡng đức và chỉ nghĩ làm lợi ích cho chúng sinh. Đó mới thật là người biết đạo, đó mới thật là báo đền ân đức của cha mẹ, ân đức của chúng sinh. Mong sao, từ bài giảng của Thầy Thích Trúc Thái Minh về “chín chữ cù lao”, mỗi người đều phát khởi được tâm hiếu thuận với cha mẹ, bởi nếu ai ai cũng tu được tâm hiếu thuận thì đất nước sẽ rất tốt đẹp.

cù lao chín chữ ghi lòng con ơi